Cân nhắc áp dụng tự vệ đối với tôn màu nhập khẩu 26.11.2016.

Ngày 6/7/2016, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 2847/QĐ-BCT về việc khởi xướng điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với mặt hàng tôn màu nhập khẩu vào Việt Nam từ các nước/vùng lãnh thổ khác nhau.

Quá trình điều tra đã đi được hơn một nửa chặng đường theo thời hạn dự kiến luật định (4/6 tháng).

Mặc dù được coi là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ sản xuất trong nước, song nhiều DN lại cho rằng, trong quá trình điều tra và xem xét vụ việc, Bộ Công Thương và các cơ quan chức năng cần phải đối chiếu với các quy định của WTO cũng như luật trong nước trước khi có quyết định vụ việc có đủ điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ hay không.

Gia tăng ổn định và đều có thể dự báo

Tự vệ là một trong ba biện pháp Phòng vệ Thương mại được WTO quy định các nguyên tắc về thủ tục trình tự, nhằm đảm bảo việc áp dụng các biện pháp này trong khuôn khổ cụ thể, tránh tối đa việc lạm dụng. Đây là biện pháp duy nhất được áp dụng trên hành vi cạnh tranh công bằng của các quốc gia khác, nhằm mục đích bảo hộ ngành sản xuất trong nước, với điều kiện là phải phù hợp với các nguyên tắc của WTO và pháp luật quốc gia về tự vệ.

Sản xuất tấm lợp, panel kim loại tại khu công nghiệp Tiên Sơn (Bắc Ninh). Ảnh: Trần Việt

Theo Luật sư Phạm Bích - Công ty Luật ATIM, căn cứ khoản 1 Điều 2 của Hiệp định tự vệ của WTO, một trong các điều kiện cần thiết để áp dụng biện pháp tự vệ với hàng hóa nhập khẩu là việc cho thấy có sự gia tăng đột biến cả về tuyệt đối và tương đối của hàng hóa đó. Phù hợp với quy định trên, căn cứ khoản 1 Điều 6 của Pháp lệnh 42/2002/PL-UBTVQH10 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam và Điều 1 của Hiệp định tự vệ yêu cầu việc áp dụng biện pháp tự vệ phải phù hợp với Điều XIX của Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch 1994 (GATT 1994) cũng đã nêu rõ. Theo đó, nước áp dụng tự vệ thương mại phải có nghĩa vụ chứng minh được: Có sự gia tăng đột biến cả về tương đối tuyệt đối của hàng nhập khẩu; Và sự gia tăng nhập khẩu phải là kết quả của những biến động không lường trước (unforeseen developments).

Dẫn chứng cụ thể, Luật sư Phạm Bích đề cập, Cơ quan phúc thẩm WTO từng giải thích khoản 1 Điều 2 của Hiệp định tự vệ yêu cầu “sự gia tăng của hàng hóa nhập khẩu phải diễn ra đủ gần, đủ đột ngột, đủ mạnh mẽ và đủ quan trọng, cả về tương đối và tuyệt đối…”. Tuy nhiên, đối chiếu với số liệu thống kê (theo Đơn kiến nghị áp dụng biện pháp tự vệ, bản công khai) so sánh khối lượng của tôn màu nhập khẩu năm 2014 và 2015 với năm 2013 cho thấy sự gia tăng ổn định về khối lượng của hàng nhập khẩu với tỷ lệ gia tăng là 55% từ năm 2013 đến 2014 và 54% từ năm 2014 đến năm 2015. Phân tích kỹ có thể thấy tỷ lệ gia tăng hàng hóa nhập khẩu của năm 2015 so với 2014 thấp hơn tỷ lệ gia tăng của năm 2014 so với 2013. Trong khi đó, lượng cầu hàng hóa đối với mặt hàng tôn màu tại thị trường Việt Nam vẫn luôn có xu hướng tăng không có dấu hiệu suy giảm trong giai đoạn 2013 - 2015. Cụ thể, theo thông tin của bên nguyên đơn, lượng hàng hóa tôn màu tiêu thụ năm 2015 tăng 17,13% so với năm 2014. “Do đó, cần đánh giá mức độ gia tăng nêu trên trong bối cảnh nhu cầu tăng có thể được coi là đột biến và quan trọng hay không?” – Luật sư Phạm Bích nêu ý kiến.

Để chứng minh sự gia tăng sản phẩm tôn màu nhập khẩu có phải là diễn biến không lường trước được, Cơ quan Phúc thẩm WTO cũng giải thích rõ, diễn biến không lường trước là việc xảy ra sau khi các nhà đàm phán của quốc gia ký kết các cam kết nhượng bộ thuế quan, mà tại thời điểm ký kết, họ không thể dự đoán được/không có cơ sở hợp lý để họ dự đoán được diễn biến đó sẽ có thể xảy ra. Trong khi, thực tế là sự gia tăng nhập khẩu mặt hàng tôn mạ màu trong thời gian qua, đặc biệt là trong năm 2015, từ Trung Quốc vào Việt Nam là hoàn toàn có thể dự đoán được. Thực hiện Hiệp định tự do thương mại ASEAN - Trung Quốc, Việt Nam đã cắt giảm dần thuế nhập khẩu với mặt hàng tôn mạ màu theo thời gian, từ 3% năm 2013, 2014 xuống 0% năm 2015. Trong phần kết luận của Hiệp định tự do thương mại ASEAN – Trung Quốc, được sửa đổi năm 2006, Việt Nam đã hoàn toàn ý thức được về lộ trình của việc tự do thuế quan, tiến tới giảm mức thuế nhập khẩu cho các hàng hóa này xuống còn 0% vào năm 2015, và hoàn toàn có thể dự tính trước được sự gia tăng của tôn mạ màu từ Trung Quốc vào Việt Nam.

Rất cần sự thận trọng

Từ những phân tích trên cho thấy, mặc dù pháp luật Việt Nam chưa có quy định và hướng dẫn cụ thể, tuy nhiên, với các quy định cụ thể của Hiệp định tự vệ và giải thích của WTO trong các vụ việc tiền lệ, nguyên đơn và cơ quan điều tra vẫn cần chỉ rõ được yếu tố ảnh hưởng và gây ra việc gia tăng tôn màu nhập khẩu trong giai đoạn này mà tại thời điểm ký kết các cam kết quốc tế nhằm tránh bị kiện khi quyết định áp dụng biện pháp tự vệ, đảm bảo phù hợp với nguyen tắc và quy định WTO.

Ngoài các điều kiện tiên quyết trên đây, để áp dụng được biện pháp tự vệ, nguyên đơn và cơ quan điều tra vụ việc còn phải xác định, chứng minh được thiệt hại của ngành sản xuất tôn màu trong nước và mối quan hệ nhân quả rõ ràng giữa các thiệt hại này với sự gia tăng “đột biến, không lường trước được” của tôn màu nhập khẩu. Bởi căn cứ theo khoản 2, Điều 2, Hiệp định tự vệ cũng như khoản 2, Điều 6 của Pháp lệnh 42 thì, việc gia tăng nhập khẩu tương đối hay tuyệt đối đó phải có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội địa sản xuất ra các sản phẩm tương tự hoặc các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp. Nếu căn cứ trên kết quả kinh doanh của các DN sản xuất tôn mạ hàng đầu Việt Nam hiện nay như Tôn Hoa Sen, Thép Nam Kim…, được công khai trên các website của chính các DN và sàn giao dịch chứng khoán nơi các công ty này niêm yết thì dường như ngành sản xuất tôn mạ mầu đang có kết quả kinh doanh rất khả quan, đặc biệt trong năm 2015 và 2016 gần đây. Vì vậy, đây cũng là những thông tin đòi hỏi sự đánh giá và xem xét khách quan, cẩn trọng của Bộ Công Thương nhằm tránh các rủi ro khi áp dụng các biện pháp tự vệ trong thời gian tới.

Bình luận & chia sẻ
Đang tải bình luận,....
Đọc thêm
Thép dẹt
_   Giá thép cuộn cán nóng tiếp tục tăng lên mức giá chưa từng thấy trước đây tại thị trường Châu Âu, với các nhà máy trên khắp Châu lục không thể cung cấp đủ nguyên liệu cho các trung tâm dịch vụ và nhà phân phối, những người đang gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu của- người dùng, các nguồn cho biết.
Khi tình hình xấu đi, có nhiều nguồn tin đang tích cực hỏi về nhập khẩu, với mức giá từ 1,000-1,080 Euro/tấn FCA Antwerp đối với thép cuộn cán nguội và 840-870 Euro/tấn FCA Antwerp đối với HRC.
Một trung tâm dịch vụ của Đức cho biết giá HRC ở 850 Euro/tấn Ruhr sẽ là “cao cấp nhất” trong phạm vi giá và nói rằng AM đã có mặt trên thị trường. Không ai có thể đánh giá đúng tình hình lúc này. Khách hàng đang chấp nhận mức tăng 70 Euro/tấn qua một đêm.
Tại thị trường Ý, một nguồn tin của trung tâm dịch vụ đã phân vân về sự khác biệt giữa thị trường hiệu suất cao Mỹ và Châu Âu.
Tôi không hiểu tại sao giá ở Mỹ cao hơn 200 Euro/tấn mà vẫn duy trì, trong khi ở Châu Âu thì không thể,” nguồn tin cho biết. "Nhu cầu cuối cùng mạnh mẽ, vấn đề là không ai có sẵn một kg hàng trong kho." Nguồn tin tương tự cũng lưu ý rằng tồn kho của trung tâm dịch vụ hiện chỉ còn giá trị trong hai tháng, so với bốn tháng gần một năm trước và nói thêm rằng có rất ít khả năng đàm phán giá với các nhà máy.
Về phía người mua, nguồn tin cho biết những người mua tuyệt vọng hiện đang cố gắng chuyển sang các sản phẩm khác ít nhu cầu hơn để đáp ứng các đơn đặt hàng của khách hàng.
Giá HRC Châu Âu hiện đã vượt mức kỷ lục năm 2008, chủ yếu xoay quanh vấn đề thiếu cung và khả năng còn thiếu hụt nữa trước các bất ổn dịch covid 19 khiến nhiều khu vực áp đặt lệnh giới nghiêm như Ý, Đức. Điều này sẽ còn giữ giá ở mức cao, tầm  gần 900 Euro/tấn Ruhr tới gần cuối Q2, song có thể điều chỉnh giảm lại xuống dưới 800 Euro/tấn qua tháng 7 khi vấn đề thắt chặt nguồn cung giảm bớt, hàng nhập khẩu tăng cường.
_   Giá thép cuộn cán nóng của Mỹ vẫn tăng và người mua tiếp tục báo cáo các lựa chọn nguồn cung hạn chế. Chỉ số HRC hàng ngày không đổi ở mức 1,342.50 USD/tấn.
Người mua trong nước không thành công trong việc nhận được bất kỳ sản phẩm sẵn có nào từ các nhà cung cấp và một nhà sản xuất thép dự kiến ​​sẽ mở đơn hàng tháng 5 vào tuần bắt đầu từ ngày 5/4 nhưng nhà máy đã thông báo về việc không có HRC trong tháng. Với việc thiếu các lựa chọn từ các nhà cung cấp trong nước, người mua điều hướng các lựa chọn của mình trên thị trường nhập khẩu và trích dẫn một chào bán ở mức 1,1170 USD/tấn DDP Houston từ Thổ Nhĩ Kỳ với thời gian đến vào cuối tháng 6.
Các chào bán ở mức 1,360 USD/tấn từ hai nhà máy riêng biệt của Canada với thời gian sản xuất vào tháng 8.
Giá sẽ tiếp tục tăng mạnh vào mùa hè vì không có biện pháp khắc phục tình trạng chặt chẽ trong ngắn hạn. Bão mùa đông và covid sẽ còn gây khó khăn hơn cho sản xuất, đẩy giá tăng thêm 50 USD/tấn lên mức đỉnh 1,400 USD/tấn có thể duy trì tới gần hè. Sau tháng 7, nguồn cung phục hồi nhẹ cộng với phế giảm giá sẽ kéo giá về xuống gần 1,000 USD/tấn.
_ Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá chào bán thép cuộn cán nóng của họ thêm vào ngày 26/3 và bắt đầu cung cấp HRC cho thị trường nội địa ở mức 900-930 USD/tấn xuất xưởng cho sản lượng tháng 7 và 890-910 USD/tấn FOB cho xuất khẩu, tùy thuộc vào nhà sản xuất và trọng tải. Việc tăng giá liên tục trong khu vực EU đã hỗ trợ báo giá của các nhà máy.
Chào giá nhập khẩu cũng tăng, với giá chào từ Nga ở mức cao 870-880 USD/tấn CFR.
Dự kiến giá HRC sẽ tăng hơn nữa trên toàn cầu trong những tuần tới, với sự hỗ trợ của việc loại bỏ hoàn thuế xuất khẩu ở Trung Quốc.
Một nhà sản xuất thép mạ khác cũng nói ngày 26/3 rằng giá chào bán của họ vẫn ổn định trong bối cảnh chi phí HRC liên tục tăng. Ông nói: “Nhu cầu trong nước chậm lại, nhưng nhu cầu xuất khẩu vẫn ổn,” ông nói và lưu ý rằng họ đã bán một số lượng tốt cho các thị trường xuất khẩu trong những tuần gần đây.
Nhấn mạnh rằng đồng lira giảm giá mạnh đã ảnh hưởng đến thị trường trong nước, một giám đốc trung tâm dịch vụ nói ngày 26/ 3 rằng thị trường nội địa hầu như đứng yên trong suốt tuần.
Ông lưu ý: “Với việc các nhà máy liên tục tăng giá khiến chi phí dự trữ của chúng tôi đang tăng mạnh, trong khi chúng tôi đang đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng trong việc phản ánh những mức tăng này cho khách hàng của mình.”
Việc ngừng bảo trì theo kế hoạch vào tháng 5 của một số nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ cũng có thể tiếp tục hỗ trợ việc định giá HRC. Giá đang tăng trưởng theo xu hướng tăng giá của Trung Quốc và Châu Âu và sẽ giữ ở mức cao gần 900 USD/tấn FOB trước khi điều chỉnh lại vào hè xuống 710-720 USD/tấn FOB khi phế giảm, lễ Ramadan làm chậm nhu cầu.
Thép dài
_Giá thép cây của Mỹ đi ngang vào ngày 26/3 trong bối cảnh thị trường có tâm lý trái chiều trước đợt mua phế liệu tháng 4.
 “Ở một số khu vực, nhu cầu vẫn lớn hơn cung,” một nhà phân phối ở Midwest cho biết. Ông đã thấy giá trị có thể giao dịch ở mức 800-820 USD/tấn đối với thị trường Mỹ. Tuy nhiên, các nguồn thị trường khác bày tỏ nghi ngờ về việc tiếp tục định giá ổn định, lưu ý rằng lượng hàng tồn đọng thấp hơn và một số nhà máy đã giảm giá ở một số khu vực nhất định.
Giá phế tháng 4 dự kiến suy yếu nhẹ song điều này sẽ không ảnh hưởng tới đà tăng giá thép cây Mỹ vì chi phí vận chuyển tăng và nguồn cung hạn chế. Các nhà máy có thể sẽ thông báo tăng thêm 20-30 USD/tấn trong tháng 4 lên 850-870 USD/tấn trước khi hàng nhâp khẩu cập cảng tháng 5 gây áp lực kéo giá giảm lại dưới 800 USD/tấn.
_    Giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ không đổi do một số nhà máy giữ nguyên mức khả thi, trong khi các nhà máy khác tăng giá chào bán sau đợt bán khối lượng lớn gần đây sang Châu Á,.
Nguồn tin từ nhà máy trích dẫn giá trị có thể giao dịch chỉ định cho 10,000 tấn vào ngày 30/3 là 615-620 USD/tấn FOB, trong khi một đại lý Thổ Nhĩ Kỳ cũng cho biết 615-620 USD/tấn FOB là khả thi đối với 10,000 tấn, nói thêm rằng giá chào ở mức 630 USD/tấn FOB và cao hơn. Một nguồn tin EU trích dẫn giá trị có thể giao dịch chỉ định cho 10,000 tấn là 615 USD/tấn FOB, trong khi một thương nhân khác cho biết trên 620 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ là khả thi.
Sau một số đợt bán hàng với khối lượng lớn sang Châu Á, một số nhà máy của Marmara đã tăng giá chào hàng lên tới 640 USD/tấn FOB, nhưng các nhà máy khác, những người vẫn còn một số lô hàng trong tháng 5, được cho là có thể thực hiện được từ 615-620 USD/tấn FOB.
Một nhà máy Izmir cũng được cho là đang đàm phán về việc vận chuyển 50,000 tấn hàng hóa vào Hồng Kông và Singapore, với mức chào bán 675 USD/tấn trọng lượng lý thuyết CFR, bao gồm một phần đáng kể vật liệu 40 mm.
Việc tăng lãi suất hiện tại được cho là sẽ gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và sẽ không tốt cho lĩnh vực xây dựng. Giá cũng đang chịu áp lực từ giá phế giảm và tiêu thụ chậm, song được hỗ trợ từ doanh số bán vào Châu Á khi Trung Quốc ngưng bán vì thiếu rõ ràng từ chính sách hoàn thuế. Dự báo giá Trung Quốc tăng sẽ tiếp tục hỗ trợ các nhà máy bán vào Châu Á, song tiêu thụ chậm lại khi vào lễ Ramadan kéo giá xuống 560-580 USD/tấn vào tháng 5.
_ Sau khi giảm khoảng 21% trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến đầu tháng 3, giá thép cây trên thị trường nội địa Nga đã tăng do nhu cầu tăng theo mùa. Chào giá từ các nhà sản xuất trong nước đều trên 50,000 Rub/tấn (656 USD/tấn) CPT Moscow bao gồm 20% VAT. Một nhà sản xuất đã thông báo một đợt tăng giá khác, lên 54,000 Rub/tấn (708 USD/tấn) vào ngày 25/3.
Giá chào mới nhất vẫn cao hơn đáng kể so với đỉnh giá khoảng 62,000 Rub/tấn (818 USD/tấn) vào tháng 1. Sau đó, thị trường quay đầu giảm xuống mức đáy khoảng 49,000 Rub/tấn (657 USD/tấn) CPT Moscow vào cuối tháng 2.
Thị trường cải thiện theo mùa đối với các dự án xây dựng trong quý II. Một số nhà cung cấp thép cây ở thị trường Moscow sẽ ngừng sản xuất để bảo trì, điều này sẽ làm mất đi một số khối lượng thép trên thị trường. Những yếu tố này sẽ hỗ trợ giá phục hồi lên 700 USD/tấn vào 2 tháng tới.
Phế
Giá phế liệu nhập của Thổ Nhĩ Kỳ không đổi trong bối cảnh đồng lira của Thổ Nhĩ Kỳ biến động mạnh.
Tuy nhiên, giá thu gom của Benelux đối với vật liệu HMS đã được nghe thấy vào khoảng 315 Euro/tấn giao tới bến, với một số nhà xuất khẩu sẵn sàng trả tới 320 Euro/tấn.
Nguồn tin từ nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trích dẫn giá trị có thể giao dịch chỉ định cho HMS 1/2 (80:20) cao cấp ở mức 420-425 USD/tấn CFR. Nguồn tin từ nhà máy cũng trích dẫn kỳ vọng giá tái chế đối với HMS 1/2 (80:20) cao cấp trong thời gian tới ở mức tối đa 440 USD/tấn CFR.
Các chào giá chỉ định cho HMS 1/2 (80:20) xuất xứ Baltic và EU ở mức 430-435 USD/tấn CFR.
Chênh lệch hàng ngày giữa thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ và phế liệu nhập khẩu được đánh giá ở mức 196 USD/tấn vào ngày 30/3, không thay đổi so với ngày trước. Hiện người bán đang chờ đợi xem diễn biến giá thép tháng 4 để có quyết định chào bán. Giá đang áp lực do sự suy yếu của thép cây và nhu cầu chậm. Giá tháng 4-tháng 5 dự báo giảm về 400-405 USD/tấn CFR khi vào mùa lễ Ramadan.