Giá bán thép tăng sẽ tác động lên kết quả kinh doanh theo 2 chiều hướng bao gồm sản lượng và biên lợi nhuận...
Theo báo cáo thị trường BĐS từ JLL, số lượng dự án xây mới tại khu vực 2 thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2017. Trong đó, nhu cầu nhà mở rộng tại cả 2 thành phố, đẩy mạnh nhu cầu xây dựng dân dụng. Bên cạnh đó, theo Bộ Công thương tính toán rà soát theo quy hoạch đầu tư công, Việt Nam đến năm 2020 có thể thiếu hụt khoảng 15 triệu tấn thép thô. Trong điều kiện đang được bảo hộ bằng thuế tự vệ cho tới năm 2020, ngành thép nội địa được dự báo vẫn còn tiềm năng để có thể giành lại thị phần trong nước.

Bên cạnh đó, chu kỳ đầu tư công quay trở lại khi nội các chính phủ đã ổn định sẽ thúc đẩy nhu cầu đối với mặt hàng thép. Hiệp hội thép thế giới dự báo, thị trường thép tại các nước thuộc nhóm ASEAN5 (bao gồm Thái Lan, Malaysia, Vietnam, Indonesia, Phillipines) sẽ tiếp tục tăng trưởng khoảng 6% trong năm tới bất chấp việc chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc, do nhu cầu đầu tư công, mở rộng hạ tầng cơ sở lớn.
Theo tính toán từ Bộ Công thương dựa trên quy hoạch đầu tư chính phủ những năm tới, cho tới năm 2020, Việt Nam sẽ thiếu hụt khoảng 15 triệu tấn thép/năm. Tương đương với nhu cầu tăng trưởng kép khoảng 15%-20%/năm đối với thép xây dựng.
Biên lợi nhuận sẽ giảm dần
Giá thép được dự báo tăng trong năm tới, tuy nhiên, hiệu ứng sẽ phân hóa. Theo những tính toán của VPBS, bất chấp việc giá nguyên liệu đầu vào được kỳ vọng giảm, và các doanh nghiệp lò điện chuyển sang nhập phôi thép để sản xuất, mặt bằng giá thép kỳ vọng vẫn cao hơn năm ngoái. Nguyên nhân là do chi phí nguyên liệu trung bình tăng.
"Mặc dù được dự báo giảm so với mức giá hiện tại, mặt bằng giá quặng sắt sau khi điều chỉnh về mức 65 USD/tấn như kỳ vọng của chúng tôi vẫn cao hơn mức giá vốn trung bình của các doanh nghiệp lò cao trong năm 2016 khoảng 15%. Giá than mỡ nhập khẩu duy trì ở mức 175 USD/tấn, cao hơn gần gấp đôi so với mức giá vốn các doanh nghiệp thép trong năm nay"
"Bên cạnh đó, hiện tại các doanh nghiệp trong nước vẫn đang có nguồn nguyên liệu giá rẻ để sản xuất, dẫn tới bất chấp việc giá nguyên liệu tăng mạnh, giá bán thép vẫn hầu như chưa điều chỉnh", VPBS cho biết.
Công ty này cho rằng yếu tố chi phí nguyên liệu tăng sẽ được phản ánh đầy đủ hơn trong năm tới, bởi vậy giá bán thép được dự báo tăng trong khi nguyên liệu có xu hướng giảm. Theo đó chi phí sản xuất ước tính của toàn thị trường nội địa và Trung Quốc cũng tăng đáng kể, khoảng 20% - 25 % yoy. Điểm hòa vốn ước đạt khoảng 9,2 triệu đồng/tấn thép cho các doanh nghiệp lò cao và 10,5 triệu đồng/tấn thép cho các doanh nghiệp lò điện. Theo đó, các doanh nghiệp thép được dự đoán sẽ nâng mức giá bán tối thiểu lên khoảng 10,7 triệu đồng – 11,1 triệu đồng/tấn trong năm tới.
Đánh giá tác động của kết quả kinh doanh, VPBS cho rằng, giá bán thép tăng sẽ tác động lên kết quả kinh doanh theo 2 chiều hướng bao gồm sản lượng và biên lợi nhuận. Về mặt sản lượng, mặt bằng giá thép tăng sẽ dẫn tới nhu cầu đầu cơ của các đại lý cao hơn. Hiện tại, giá bán thép của các doanh nghiệp trong nước đang dao động trong khoảng 9 – 9,5 triệu đồng/tấn do các doanh nghiệp vẫn đang tích trữ được nguồn nguyên liệu giá rẻ.
Tuy nhiên, bước sang năm tới, khi chi phí sản xuất bắt đầu tăng do phải nhập nguyên liệu giá cao, giá bán sẽ được điều chỉnh tăng, tạo ra nhu cầu đầu cơ cho các đại lý, tác động tích cực lên sản lượng bán hàng trong quý IV/2016 và đầu năm 2017.
Về mặt biên lợi nhuận, VPBS cho rằng, các doanh nghiệp lò điện sẽ gặp khó khăn hơn so với các doanh nghiệp lò cao. Cụ thể, các doanh nghiệp lò điện sẽ có xu hướng nhập khẩu phôi thép và phải chịu thuế nhập khẩu 30%, chi phí sản xuất xấp xỉ giá bán kì vọng. Trong khi đó, các doanh nghiệp lò cao sẽ được hưởng lợi nhờ tự sản xuất được nguồn phôi giá rẻ hơn so với hàng nhập khẩu như tính toán.
Theo đó, bức tranh ngành thép được dự báo sẽ biến chuyển theo hướng sản lượng sản xuất tăng trong đầu năm và sau đó hạ nhiệt dần, mặt bằng giá bán tăng theo chi phí sản xuất, và biên lợi nhuận chung của toàn thị trường giảm dần về cuối năm, các doanh nghiệp lò điện gần như hòa vốn, các doanh nghiệp lò cao có biên lợi nhuận ròng ước đạt 10%.
Formosa chưa mang tới rủi ro cạnh tranh trực tiếp
Formosa dự kiến đi vào hoạt động trong tháng 12/2016. Giai đoạn 1 của Formosa dự kiến sẽ bắt đầu vận hành trong cuối năm nay, sản phẩm của giai đoạn 1 bao gồm nguyên liệu bán thành phẩm bao gồm cuộn cán nóng HRC và phôi thép, tạm thời chưa sản xuất thép xây dựng trong năm 2017.
Formosa có hệ thống lò cao dung tích lớn vượt trội lên tới 4.350 m3, vượt xa dung tích của lò cao lớn nhất Việt Nam hiện nay của HPG chỉ đạt 700m3, và công suất phôi đạt 3 triệu tấn/năm. Nhờ vậy chi phí sản xuất phôi của Formosa sẽ thấp hơn đáng kể so với các doanh nghiệp lò cao nội địa.
Sản phẩm phôi chính của Formosa là phôi dẹt để sản xuất cuộn cán nóng. Ngoài ra Formosa cũng sản xuất phôi thanh để sản xuất thép dài (cạnh tranh với HPG). Tuy vậy, theo đánh giá của VPBS, rủi ro từ việc thép Formosa cạnh tranh tực tiếp với sản phẩm nội địa là chưa hiện hữu. Bên cạnh đó, nếu Formosa bán phôi thép ra thị trường nội địa, các doanh nghiệp lò điện sẽ được hưởng lợi nhờ việc có thêm nguồn phôi giá rẻ không phải chịu thuế nhập khẩu, và nâng cao sức cạnh tranh với doanh nghiệp lò cao.
Trong gần bốn tháng qua, giá mặt hàng thép 14 lần liên tục “lao dốc” với tổng mức giảm từ 4 triệu đồng đến 5,5 triệu đồng/tấn tùy từng thương hiệu, chủng loại. Ðiều này khiến thị trường xây dựng giảm bớt áp lực, song lại khiến nhiều doanh nghiệp ngành thép có nguy cơ rơi vào thua lỗ trong sản xuất, kinh doanh.
Các doanh nghiệp thép đều đang đặt kỳ vọng cuối năm 2022 giá thép sẽ phục hồi khi các dự án xây dựng tăng tốc. Song với lượng hàng tồn kho còn khá lớn, nhất là những tháng cuối năm có thể chịu tác động xấu do nhu cầu sụt giảm, bảo hộ thương mại gia tăng, cùng với thời tiết vào mùa mưa,… là những yếu tố bất lợi, cản đà phục hồi của ngành thép.
Giá thép giảm 14 lần liên tiếp
Ðến giữa tháng 8 vừa qua, đã có nhiều doanh nghiệp sản xuất thép trong nước thông báo giảm giá lần thứ 14 liên tiếp trong gần bốn tháng. Theo đó, tại khu vực miền bắc, giá thép cuộn CB240 và thép thanh vằn D10 CB300 thương hiệu Hòa Phát giảm khoảng 300 nghìn đồng/tấn, với giá lần lượt còn 14,8 triệu đồng/tấn và 15,7 triệu đồng/tấn. Còn với thương hiệu Việt Nhật, mức giảm từ 200 nghìn đồng đến 310 nghìn đồng/ tấn, sau điều chỉnh giá hai loại thép này lần lượt còn 14,7 triệu đồng/tấn và 15,3 triệu đồng/tấn.
Riêng tại khu vực miền trung, thép Pomina có mức giảm mạnh nhất với giá thép cuộn CB240 giảm tới 1,31 triệu đồng/tấn, xuống còn 14,98 triệu đồng/tấn, thép thanh vằn D10 CB300 giảm 310 nghìn đồng/tấn, xuống còn 16,39 triệu đồng/tấn.
.jpeg)
Sau bốn tháng đầu năm tăng nóng, bảy lần điều chỉnh tăng giá bán, đã có lúc giá thép chạm ngưỡng 21 triệu đồng/tấn, nay giá thép trong nước lại đảo ngược bất ngờ, về mức thấp hơn thời điểm đầu năm. Theo chia sẻ của Giám đốc Công ty Xây dựng Thành Thắng, Lê Ðình Thắng, sau thời gian dài tăng nhanh, việc giá thép giảm mạnh giúp cho các dự án thi công nhận thầu từ đầu năm đến nay có phần dễ thở đối với công trình có trị giá lớn do không còn phải bù lỗ với các hợp đồng đơn giá cố định.
Suốt thời gian dài vừa qua, biên lợi nhuận của doanh nghiệp luôn phải chịu nhiều áp lực do chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng cao kèm theo thị trường bất động sản trầm lắng, đầu tư công chưa đạt kỳ vọng. Khi giá thép “hạ nhiệt” sẽ làm giảm bớt gánh nặng cho nhiều doanh nghiệp xây dựng bởi thép thường chiếm khoảng 20%-30% chi phí mỗi công trình.
Tuy nhiên, việc giá thép liên tục “dò” đáy có thể khiến cho kế hoạch sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp ngành thép trong năm 2022 sẽ không đạt như kỳ vọng. Ðơn cử như Tập đoàn Hòa Phát, nửa đầu năm 2022 ghi nhận doanh thu 82.118 tỷ đồng và 12.229 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, tương ứng giảm 27% so với cùng kỳ năm 2021, hoàn thành 46% kế hoạch năm.
Trên cơ sở đó, Hòa Phát dự kiến lợi nhuận cả năm 2022 chỉ đạt mức 25 nghìn tỷ đến 30 nghìn tỷ đồng, thấp hơn mức lợi nhuận 34.521 tỷ đồng của năm 2021. Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên (TISCO) cũng vừa thông báo, lãi quý II/2022 giảm 90% so cùng kỳ năm 2021, xuống còn gần sáu tỷ đồng. Tương tự, Công ty cổ phần Thép Thủ Ðức, báo cáo doanh thu quý II/2022 với lợi nhuận sau thuế âm gần hai tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm 2021 lãi 34 tỷ đồng.
Kỳ vọng những tháng cuối năm
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), nửa đầu năm 2022, phần lớn các nhà máy đều trong tình trạng khó khăn do lượng hàng tồn kho cao với mức 1,42 triệu tấn, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2021. Mức độ cạnh tranh giữa các nhà máy ngày càng khốc liệt về giá bán và xâm lấn thị phần của nhau.
Ðể tháo gỡ khó khăn, nhiều nhà máy thép đã buộc phải cắt giảm sản xuất từ 3 ca/ngày xuống còn 2 ca/ngày, thậm chí có những giai đoạn phải dừng sản xuất. Chủ tịch VSA Nghiêm Xuân Ða dự báo, thép xây dựng từ tháng 7 đến tháng 9 sẽ kém sôi động do thời tiết bước vào mùa mưa, đây cũng là một trong những yếu tố tạo nên tính chu kỳ cho ngành thép khiến nhiều công trình xây dựng ảnh hưởng tiến độ. Giá thép xây dựng trong nước sẽ tiếp tục giảm, trong khi lợi nhuận mảng xuất khẩu mặt hàng này không còn tốt như trước. Gần đây, EU đang ngày càng siết chặt các chính sách bảo hộ thương mại đối với sản phẩm thép của Việt Nam, giảm hạn ngạch nhập khẩu.
Với điều chỉnh này, xuất khẩu sắt thép của Việt Nam sang thị trường EU có thể sẽ giảm trong thời gian tới. Trong khi đó, những yếu tố khiến triển vọng thị trường thép nửa cuối năm chưa khả quan khi tốc độ giải ngân đầu tư công chậm, ngân hàng siết tín dụng bất động sản, mùa cao điểm xây dựng đã qua,… khiến các doanh nghiệp thép “bí” đầu ra.
Ngành thép Việt Nam đang phải đối mặt với sức ép cả về phía cung và cầu khi giá nguyên vật liệu tăng, trong khi nhu cầu bị thu hẹp. Dự báo trong năm 2022, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu để sản xuất thép như quặng sắt cho các lò cao khoảng hơn 18 triệu tấn, thép phế khoảng 6 triệu-6,5 triệu tấn cho các lò điện, than mỡ luyện cốc khoảng 6,5 triệu tấn và điện cực graphite 10 nghìn tấn. Nhưng khả năng giá quặng sắt, thép phế, quặng nguyên liệu thô và than mỡ luyện cốc,… vẫn duy trì ở mức cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp sản xuất thép và thị trường thép trong nước.
Bộ Công thương đã có những biện pháp bảo đảm cung cầu và bình ổn giá, theo dõi và xử lý kịp thời việc chống bán phá giá một số sản phẩm thép nhập khẩu vào thị trường Việt Nam cũng như đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá của các nước với mặt hàng thép xuất khẩu của Việt Nam nhằm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại cho các doanh nghiệp sản xuất thép. Ngành Công thương đã tăng cường công tác quản lý thị trường để ngăn chặn, xử lý kịp thời hiện tượng đầu cơ tăng giá, thao túng giá thép trên thị trường, gian lận thương mại làm thất thu ngân sách nhà nước và ảnh hưởng đến người tiêu dùng,…
Thời gian qua, các dự án đầu tư triển khai có phần chậm, kéo theo lượng thép tiêu thụ giảm khiến các doanh nghiệp thép buộc phải giảm công suất sản xuất, trong khi thép tồn kho từ trước còn khá lớn, cho nên khi giá giảm mạnh như hiện nay sẽ ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh doanh. Doanh nghiệp nào tồn kho nhiều sẽ phải chịu cảnh “đầu vào cao, đầu ra thấp”, khiến doanh thu sụt giảm nghiêm trọng.
Các chuyên gia dự báo từ nay đến cuối năm sẽ còn nhiều khó khăn đối với ngành thép, song với những kinh nghiệm tích lũy được trong việc ứng phó trên thị trường nhiều năm qua, vẫn có nhiều tín hiệu cho thấy các doanh nghiệp ngành thép Việt Nam có các giải pháp sáng tạo vượt qua khó khăn, ổn định sản xuất, kinh doanh. Dịp cuối năm, nhất là trong quý IV, việc xây dựng công trình nhà ở, bất động sản tăng trưởng trở lại sẽ khiến lượng tiêu thụ các sản phẩm thép trong năm 2022 có thể tăng trưởng quanh mức 7%-10%.
