19/05/2017 Hãy để thép Việt tự "bơi"

Dù nhận được rất nhiều ưu đãi trong nhiều thập niên qua nhưng Tổng công ty Thép Việt Nam (VNSTEEL) với mũi nhọn là Công ty Gang thép Thái Nguyên (TISCO) vẫn không trở thành trụ cột như kỳ vọng.

TISCO cùng Công ty TNHH khoáng sản và luyện kim Việt Trung (VTM) – liên doanh giữa VNSTEEL và đối tác Trung Quốc – là 2 đại diện của ngành thép nằm trong danh sách 12 dự án thua lỗ ngàn tỷ mà Bộ Công thương đang xử lý.

Những con số biết nói

Khu Liên hiệp Gang thép Thái Nguyên (tiền thân của TISCO) được Trung Quốc xây dựng năm 1959 với dây chuyền khép kín từ khai thác quặng, luyện gang, luyện thép, cán thép. TISCO được Chính phủ rót 170 triệu USD là vốn ODA vay từ Trung Quốc để mở rộng nhà máy giai đoạn 1, nhưng TISCO không tạo ra đột phá đáng kể.

Dự án mở rộng giai đoạn 2 của TISCO khởi công tháng 9/2007 với tổng đầu tư 3.843 tỷ đồng rồi tăng lên 8.104 tỷ đồng vào tháng 8/2012. Nhà thầu chính là Tập đoàn Xây lắp Luyện kim Trung Quốc (MCC).

Tháng 9/2014, thủ tướng tiếp tục chấp thuận cho Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn nhà nước (SCIC) đầu tư 1.000 tỷ đồng vào TISCO để tiếp tục triển khai dự án. Tuy nhiên, chiến dịch giải cứu TISCO bất thành.

Sau 2 năm đi vào vận hành, VTM đầu năm 2017 thông báo lỗ 1.000 tỷ đồng. Cũng như TISCO, VTM sử dụng công nghệ lò cao, luyện thép từ quặng sắt khác với công nghệ lò hồ quang luyện thép từ phế liệu. Liên doanh khai thác nguyên liệu quặng sắt từ mỏ Quý Xa (Lào Cai) có trữ lượng 120 triệu tấn, chỉ xếp sau mỏ Thạch Kim, Hà Tĩnh (500 triệu tấn).

Báo cáo của Công ty Chứng khoán Bản Việt liên quan đến tình hình sản xuất thép cho thấy quặng sắt chiếm tỷ phần lớn nhất trong cơ cấu chi phí theo công nghệ lò cao (35%). Vậy nên biến động giá của đầu vào này tác động đáng kể đến năng lực cạnh tranh. Chu kỳ tăng giá mới của quặng sắt thế giới bắt đầu từ tháng 4/2007 (38,4 USD/tấn) và đạt đỉnh vào ngày 19/1/2011 (185 USD/tấn) với loại quặng có hàm lượng 62% sắt.

Ngày 9/1/2012, thủ tướng ban hành Chỉ thị 02/CT-TTg, đưa quặng sắt vào danh mục dừng xuất khẩu, “tổ chức khai thác có hiệu quả dự án khai thác mỏ sắt Thạch Khê và các dự án khai thác quặng sắt khác để phục vụ cho các cơ sở sản xuất gang, thép trong nước…”.

Dù hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng và xuất khẩu khoáng sản có nhiều bất cập là cơ sở quan trọng cho sự ra đời của Chỉ thị 02 nhưng trong bối cảnh giá quặng còn cao, một trong những đối tượng hưởng lợi chính sách nhiều nhất là doanh nghiệp sản xuất thép theo công nghệ lò cao.

Năm 2014, thị trường phân hóa rõ rệt khi phần lớn lợi nhuận đổ vào Tập đoàn Hòa Phát trong khi đa số doanh nghiệp cùng ngành vật lộn với bài toán hòa vốn. Hoạt động kinh doanh của Hòa Phát tiếp tục khả quan trong năm 2015, đưa doanh nghiệp tư nhân này chiếm lĩnh thị phần hàng đầu tại thị trường nội địa.

Đối tượng thứ 2 là doanh nghiệp… Trung Quốc. Sau một năm Chỉ thị 02 có hiệu lực, cả giá và lượng xuất khẩu ghi nhận bởi hải quan Việt Nam và Trung Quốc đều có độ vênh khá lớn. Nguyên nhân là quặng sắt vượt biên bằng đường tiểu ngạch.

Quẩn quanh trong ổ

Bất động sản ngày càng được bơm căng mang lại niềm vui cho ngành thép trong năm 2016. Sản lượng sản xuất đạt 17,5 triệu tấn (tăng 16,8% so với cùng kỳ), trong đó thép xây dựng chiếm 8,5 triệu tấn (tăng 18,3%). Đằng sau những chỉ báo tích cực này chính là quy mô thị trường, rất khiêm tốn so với phần còn lại của thế giới.

Cũng trong năm 2016, ngành thép nhập siêu 6,7 tỷ USD, theo báo cáo của Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA). Mặc dù sản phẩm thép của Việt Nam đã vươn tới một số thị trường khó tính như Hoa Kỳ nhưng nếu nhìn vào sản lượng và giá trị, thị trường xuất khẩu chủ lực vẫn là một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là Lào và Campuchia.

Một thực tế không thể chối bỏ là ngành thép chưa đủ khả năng sản xuất hoặc năng lực đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường, gồm thép hợp kim, thép hình, thép tấm, thép không gỉ, thép chế tạo… Cung ứng mất cân đối chỉ hé lộ phần nào diện mạo năng lực cạnh tranh của thép Việt.

Thép là một ngành có lợi thế kinh tế theo quy mô. Dung tích lò càng lớn, càng tiết kiệm chi phí. Ngoài Hòa Phát, còn khoảng 10 doanh nghiệp khác cũng sử dụng công nghệ lò cao nhưng không hiệu quả. Điểm chung là dung tích lò từ nhỏ đến rất nhỏ, công nghệ lạc hậu.

Tính đến năm 2013, Nhật sở hữu 13/27 lò cao dung tích trên 5.000 khối. Gần hơn là Trung Quốc với 43 lò công suất từ 1.000 đến 4.350 khối chưa kể gần 4.000 lò công suất nhỏ. Đáng lưu tâm, Trung Quốc là nhà xuất khẩu công nghệ lò cao lớn nhất vào Việt Nam. Ngành thép sẽ đương đầu như thế nào khi nhập khẩu công nghệ từ chính đối thủ?

Trung Quốc còn là nhà sản xuất và tiêu thụ thép lớn nhất hiện nay, chiếm khoảng phân nửa thị phần toàn cầu (1,6 tỷ tấn thép năm 2016). Thế nên, chỉ cần thị trường này “hắt hơi sổ mũi”, ngành thép thế giới lao đao, huống chi là những quốc gia có đường biên giới với Trung Quốc.

Năm 2015, Việt Nam dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nhập khẩu thép, nhiều nhất là từ Trung Quốc. Thậm chí doanh nghiệp vẫn tiếp tục nhập phôi thép và thép dài dù Bộ Công thương áp dụng thuế tự vệ tạm thời lần lượt ở mức 23,3% và 14,2%. Đây là bằng chứng cho thấy những nhà nhập khẩu vẫn có lời, đồng thời khuyến cáo nghiêm túc với những nhà hoạch định chính sách. Vai trò của Trung Quốc là một trọng số trong bài toán chiến lược ngành thép.

Ngày 24/4/2017, Asia Times đưa tin Trung Quốc quyết định rút giấy phép 29 nhà máy thép vì mở rộng sản xuất hoặc không tuân thủ quy định về công suất và kiểm soát ô nhiễm trong một thời gian dài. Bên cạnh đó là danh sách 40 công ty buộc phải thay đổi hoạt động liên quan đến môi trường và an toàn lao động.

Nước này vẫn đang nỗ lực giảm từ 100 triệu đến 150 triệu tấn thép dư thừa trong giai đoạn 2016 - 2020, đồng thời loại bỏ 100 triệu tấn thép xây dựng chất lượng thấp vào cuối tháng 6/2017.

Đây không phải lần đầu tiên Trung Quốc cắt giảm sản lượng. Năm 2015, lãnh đạo Hiệp hội Quặng – Thép Trung Quốc xác nhận tình trạng dư thừa công suất không giảm dù chính quyền đã ban hành 20 văn bản chính sách từ năm 2010. Đẩy mạnh xuất khẩu là giải pháp song hành để nước này giải quyết lượng hàng tồn kho.

Nguồn lực hữu hạn cần được phân bổ vào những ngành Việt Nam có tiềm năng cạnh tranh quốc tế tốt nhất. Sau nhiều thập niên, (những) con cưng của Nhà nước vẫn chưa trưởng thành. Sự trỗi dậy của khu vực tư nhân tại thị trường nội địa dù rất đáng ghi nhận nhưng năng lực cạnh tranh quốc tế vẫn là một dấu hỏi. Câu trả lời có thể dễ dàng tìm thấy bằng cách chấm dứt mọi hình thức hỗ trợ chính thức và phi chính thức, để ngành thép tự thân xoay xở với thị trường.

Quan điểm sản xuất từ A đến Z không phải là mô thức thành công đối với mọi ngành. Khép kín chuỗi giá trị sản xuất không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với gia tăng giá trị. Sở hữu tài nguyên chưa chắc đã là lợi thế.

Úc không phát triển ngành thép dù là quốc gia có trữ lượng quặng sắt lớn nhất thế giới. Ngược lại, Hàn Quốc không có quặng sắt nhưng lại xây dựng thành công cụm ngành thép với thương hiệu POSCO. Một trong những yếu tố quan trọng mang lại thành công cho POSCO là doanh nghiệp định hướng cạnh tranh quốc tế xuyên suốt từ thuở khởi nguyên.

Bình luận & chia sẻ
Đang tải bình luận,....
Đọc thêm
Thép dẹt
_   Giá thép cuộn cán nóng tiếp tục tăng lên mức giá chưa từng thấy trước đây tại thị trường Châu Âu, với các nhà máy trên khắp Châu lục không thể cung cấp đủ nguyên liệu cho các trung tâm dịch vụ và nhà phân phối, những người đang gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu của- người dùng, các nguồn cho biết.
Khi tình hình xấu đi, có nhiều nguồn tin đang tích cực hỏi về nhập khẩu, với mức giá từ 1,000-1,080 Euro/tấn FCA Antwerp đối với thép cuộn cán nguội và 840-870 Euro/tấn FCA Antwerp đối với HRC.
Một trung tâm dịch vụ của Đức cho biết giá HRC ở 850 Euro/tấn Ruhr sẽ là “cao cấp nhất” trong phạm vi giá và nói rằng AM đã có mặt trên thị trường. Không ai có thể đánh giá đúng tình hình lúc này. Khách hàng đang chấp nhận mức tăng 70 Euro/tấn qua một đêm.
Tại thị trường Ý, một nguồn tin của trung tâm dịch vụ đã phân vân về sự khác biệt giữa thị trường hiệu suất cao Mỹ và Châu Âu.
Tôi không hiểu tại sao giá ở Mỹ cao hơn 200 Euro/tấn mà vẫn duy trì, trong khi ở Châu Âu thì không thể,” nguồn tin cho biết. "Nhu cầu cuối cùng mạnh mẽ, vấn đề là không ai có sẵn một kg hàng trong kho." Nguồn tin tương tự cũng lưu ý rằng tồn kho của trung tâm dịch vụ hiện chỉ còn giá trị trong hai tháng, so với bốn tháng gần một năm trước và nói thêm rằng có rất ít khả năng đàm phán giá với các nhà máy.
Về phía người mua, nguồn tin cho biết những người mua tuyệt vọng hiện đang cố gắng chuyển sang các sản phẩm khác ít nhu cầu hơn để đáp ứng các đơn đặt hàng của khách hàng.
Giá HRC Châu Âu hiện đã vượt mức kỷ lục năm 2008, chủ yếu xoay quanh vấn đề thiếu cung và khả năng còn thiếu hụt nữa trước các bất ổn dịch covid 19 khiến nhiều khu vực áp đặt lệnh giới nghiêm như Ý, Đức. Điều này sẽ còn giữ giá ở mức cao, tầm  gần 900 Euro/tấn Ruhr tới gần cuối Q2, song có thể điều chỉnh giảm lại xuống dưới 800 Euro/tấn qua tháng 7 khi vấn đề thắt chặt nguồn cung giảm bớt, hàng nhập khẩu tăng cường.
_   Giá thép cuộn cán nóng của Mỹ vẫn tăng và người mua tiếp tục báo cáo các lựa chọn nguồn cung hạn chế. Chỉ số HRC hàng ngày không đổi ở mức 1,342.50 USD/tấn.
Người mua trong nước không thành công trong việc nhận được bất kỳ sản phẩm sẵn có nào từ các nhà cung cấp và một nhà sản xuất thép dự kiến ​​sẽ mở đơn hàng tháng 5 vào tuần bắt đầu từ ngày 5/4 nhưng nhà máy đã thông báo về việc không có HRC trong tháng. Với việc thiếu các lựa chọn từ các nhà cung cấp trong nước, người mua điều hướng các lựa chọn của mình trên thị trường nhập khẩu và trích dẫn một chào bán ở mức 1,1170 USD/tấn DDP Houston từ Thổ Nhĩ Kỳ với thời gian đến vào cuối tháng 6.
Các chào bán ở mức 1,360 USD/tấn từ hai nhà máy riêng biệt của Canada với thời gian sản xuất vào tháng 8.
Giá sẽ tiếp tục tăng mạnh vào mùa hè vì không có biện pháp khắc phục tình trạng chặt chẽ trong ngắn hạn. Bão mùa đông và covid sẽ còn gây khó khăn hơn cho sản xuất, đẩy giá tăng thêm 50 USD/tấn lên mức đỉnh 1,400 USD/tấn có thể duy trì tới gần hè. Sau tháng 7, nguồn cung phục hồi nhẹ cộng với phế giảm giá sẽ kéo giá về xuống gần 1,000 USD/tấn.
_ Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá chào bán thép cuộn cán nóng của họ thêm vào ngày 26/3 và bắt đầu cung cấp HRC cho thị trường nội địa ở mức 900-930 USD/tấn xuất xưởng cho sản lượng tháng 7 và 890-910 USD/tấn FOB cho xuất khẩu, tùy thuộc vào nhà sản xuất và trọng tải. Việc tăng giá liên tục trong khu vực EU đã hỗ trợ báo giá của các nhà máy.
Chào giá nhập khẩu cũng tăng, với giá chào từ Nga ở mức cao 870-880 USD/tấn CFR.
Dự kiến giá HRC sẽ tăng hơn nữa trên toàn cầu trong những tuần tới, với sự hỗ trợ của việc loại bỏ hoàn thuế xuất khẩu ở Trung Quốc.
Một nhà sản xuất thép mạ khác cũng nói ngày 26/3 rằng giá chào bán của họ vẫn ổn định trong bối cảnh chi phí HRC liên tục tăng. Ông nói: “Nhu cầu trong nước chậm lại, nhưng nhu cầu xuất khẩu vẫn ổn,” ông nói và lưu ý rằng họ đã bán một số lượng tốt cho các thị trường xuất khẩu trong những tuần gần đây.
Nhấn mạnh rằng đồng lira giảm giá mạnh đã ảnh hưởng đến thị trường trong nước, một giám đốc trung tâm dịch vụ nói ngày 26/ 3 rằng thị trường nội địa hầu như đứng yên trong suốt tuần.
Ông lưu ý: “Với việc các nhà máy liên tục tăng giá khiến chi phí dự trữ của chúng tôi đang tăng mạnh, trong khi chúng tôi đang đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng trong việc phản ánh những mức tăng này cho khách hàng của mình.”
Việc ngừng bảo trì theo kế hoạch vào tháng 5 của một số nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ cũng có thể tiếp tục hỗ trợ việc định giá HRC. Giá đang tăng trưởng theo xu hướng tăng giá của Trung Quốc và Châu Âu và sẽ giữ ở mức cao gần 900 USD/tấn FOB trước khi điều chỉnh lại vào hè xuống 710-720 USD/tấn FOB khi phế giảm, lễ Ramadan làm chậm nhu cầu.
Thép dài
_Giá thép cây của Mỹ đi ngang vào ngày 26/3 trong bối cảnh thị trường có tâm lý trái chiều trước đợt mua phế liệu tháng 4.
 “Ở một số khu vực, nhu cầu vẫn lớn hơn cung,” một nhà phân phối ở Midwest cho biết. Ông đã thấy giá trị có thể giao dịch ở mức 800-820 USD/tấn đối với thị trường Mỹ. Tuy nhiên, các nguồn thị trường khác bày tỏ nghi ngờ về việc tiếp tục định giá ổn định, lưu ý rằng lượng hàng tồn đọng thấp hơn và một số nhà máy đã giảm giá ở một số khu vực nhất định.
Giá phế tháng 4 dự kiến suy yếu nhẹ song điều này sẽ không ảnh hưởng tới đà tăng giá thép cây Mỹ vì chi phí vận chuyển tăng và nguồn cung hạn chế. Các nhà máy có thể sẽ thông báo tăng thêm 20-30 USD/tấn trong tháng 4 lên 850-870 USD/tấn trước khi hàng nhâp khẩu cập cảng tháng 5 gây áp lực kéo giá giảm lại dưới 800 USD/tấn.
_    Giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ không đổi do một số nhà máy giữ nguyên mức khả thi, trong khi các nhà máy khác tăng giá chào bán sau đợt bán khối lượng lớn gần đây sang Châu Á,.
Nguồn tin từ nhà máy trích dẫn giá trị có thể giao dịch chỉ định cho 10,000 tấn vào ngày 30/3 là 615-620 USD/tấn FOB, trong khi một đại lý Thổ Nhĩ Kỳ cũng cho biết 615-620 USD/tấn FOB là khả thi đối với 10,000 tấn, nói thêm rằng giá chào ở mức 630 USD/tấn FOB và cao hơn. Một nguồn tin EU trích dẫn giá trị có thể giao dịch chỉ định cho 10,000 tấn là 615 USD/tấn FOB, trong khi một thương nhân khác cho biết trên 620 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ là khả thi.
Sau một số đợt bán hàng với khối lượng lớn sang Châu Á, một số nhà máy của Marmara đã tăng giá chào hàng lên tới 640 USD/tấn FOB, nhưng các nhà máy khác, những người vẫn còn một số lô hàng trong tháng 5, được cho là có thể thực hiện được từ 615-620 USD/tấn FOB.
Một nhà máy Izmir cũng được cho là đang đàm phán về việc vận chuyển 50,000 tấn hàng hóa vào Hồng Kông và Singapore, với mức chào bán 675 USD/tấn trọng lượng lý thuyết CFR, bao gồm một phần đáng kể vật liệu 40 mm.
Việc tăng lãi suất hiện tại được cho là sẽ gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và sẽ không tốt cho lĩnh vực xây dựng. Giá cũng đang chịu áp lực từ giá phế giảm và tiêu thụ chậm, song được hỗ trợ từ doanh số bán vào Châu Á khi Trung Quốc ngưng bán vì thiếu rõ ràng từ chính sách hoàn thuế. Dự báo giá Trung Quốc tăng sẽ tiếp tục hỗ trợ các nhà máy bán vào Châu Á, song tiêu thụ chậm lại khi vào lễ Ramadan kéo giá xuống 560-580 USD/tấn vào tháng 5.
_ Sau khi giảm khoảng 21% trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến đầu tháng 3, giá thép cây trên thị trường nội địa Nga đã tăng do nhu cầu tăng theo mùa. Chào giá từ các nhà sản xuất trong nước đều trên 50,000 Rub/tấn (656 USD/tấn) CPT Moscow bao gồm 20% VAT. Một nhà sản xuất đã thông báo một đợt tăng giá khác, lên 54,000 Rub/tấn (708 USD/tấn) vào ngày 25/3.
Giá chào mới nhất vẫn cao hơn đáng kể so với đỉnh giá khoảng 62,000 Rub/tấn (818 USD/tấn) vào tháng 1. Sau đó, thị trường quay đầu giảm xuống mức đáy khoảng 49,000 Rub/tấn (657 USD/tấn) CPT Moscow vào cuối tháng 2.
Thị trường cải thiện theo mùa đối với các dự án xây dựng trong quý II. Một số nhà cung cấp thép cây ở thị trường Moscow sẽ ngừng sản xuất để bảo trì, điều này sẽ làm mất đi một số khối lượng thép trên thị trường. Những yếu tố này sẽ hỗ trợ giá phục hồi lên 700 USD/tấn vào 2 tháng tới.
Phế
Giá phế liệu nhập của Thổ Nhĩ Kỳ không đổi trong bối cảnh đồng lira của Thổ Nhĩ Kỳ biến động mạnh.
Tuy nhiên, giá thu gom của Benelux đối với vật liệu HMS đã được nghe thấy vào khoảng 315 Euro/tấn giao tới bến, với một số nhà xuất khẩu sẵn sàng trả tới 320 Euro/tấn.
Nguồn tin từ nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trích dẫn giá trị có thể giao dịch chỉ định cho HMS 1/2 (80:20) cao cấp ở mức 420-425 USD/tấn CFR. Nguồn tin từ nhà máy cũng trích dẫn kỳ vọng giá tái chế đối với HMS 1/2 (80:20) cao cấp trong thời gian tới ở mức tối đa 440 USD/tấn CFR.
Các chào giá chỉ định cho HMS 1/2 (80:20) xuất xứ Baltic và EU ở mức 430-435 USD/tấn CFR.
Chênh lệch hàng ngày giữa thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ và phế liệu nhập khẩu được đánh giá ở mức 196 USD/tấn vào ngày 30/3, không thay đổi so với ngày trước. Hiện người bán đang chờ đợi xem diễn biến giá thép tháng 4 để có quyết định chào bán. Giá đang áp lực do sự suy yếu của thép cây và nhu cầu chậm. Giá tháng 4-tháng 5 dự báo giảm về 400-405 USD/tấn CFR khi vào mùa lễ Ramadan.