20/03/2017 Phòng vệ thương mại chỉ là giải pháp tình thế

Trước áp lực thép ngoại, doanh nghiệp (DN) thép Việt Nam đang tính đến sử dụng biện pháp phòng vệ thương mại, nhưng ông Nguyễn Văn Sưa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam cho rằng đó chỉ là giải pháp tình thế.

Hiệp hội Thép Việt Nam cho rằng giá thép xây dựng sẽ không tăng đột biến. Ảnh: Lê Tiên

 

Thời gian qua, lượng thép cung ứng khá dồi dào. Ông đánh giá thế nào về tình hình hoạt động của ngành thép?

Trong 2 tháng đầu năm 2017, lượng thép thô DN trong nước sản xuất được đạt 838,7 nghìn tấn, tăng 21,4% so với cùng kỳ; thép cán đạt 1.002,8 nghìn tấn, tăng 35,4% so với cùng kỳ; thép thanh, thép góc đạt 722,2 nghìn tấn, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2016. Riêng trong tháng 2, nhập khẩu thép các loại tăng 8,8% về lượng lượng và 66,5% về trị giá.

Để sản xuất thép, hàng năm, Việt Nam nhập khẩu lượng lớn nguyên liệu và bán thành phẩm (phôi, thép cuộn cán nóng) để phục vụ sản xuất trong nước. Do đó, khi sản xuất trong nước tăng lên, nhu cầu nhập khẩu cũng tăng, đây không phải là điều đáng ngại. Vấn đề đáng ngại nhất là trong số thép nhập khẩu có một số sản phẩm thép ở Việt Nam đã sản xuất được, chất lượng một số mặt hàng thép nhập khẩu cũng còn có vấn đề. Vì thế, Nhà nước đã có chính sách bảo vệ thép trong nước bằng cách áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại.

Phòng vệ thương mại chỉ là giải pháp tình thế - ảnh 1
Ông Nguyễn Văn Sưa
Nhiều ý kiến cho rằng năng lực cạnh tranh của DN thép nước ta còn thấp, quan điểm của ông thế nào?

Về vấn đề này, Hiệp hội cho rằng, khả năng cạnh tranh của ngành thép Việt Nam còn kém so với Trung Quốc, nhưng khá so với các nước còn lại. Bằng chứng là những năm vừa qua, chúng ta vẫn xuất khẩu được một lượng lớn sản phẩm thép sang các nước trong khu vực ASEAN và các nước khác… Đặc biệt, năm 2016, lượng thép xuất sang Mỹ đã tăng đột biến. 

Hiệp hội Thép cuối năm 2016 đã có kiến nghị về việc áp thuế tự vệ chặn thép cuộn tràn vào Việt Nam. Đến nay, kiến nghị này đã được xử lý ra sao?

Năm 2016, Bộ Công Thương đã khởi xướng điều tra áp thuế tự vệ đối với thép dài và phôi thép. Trong các sản phẩm thép dài có sản phẩm là thép cuộn nêu trên.

Cụ thể là qua quá trình theo dõi, Hiệp hội thấy sau khi có quyết định áp thuế tự vệ của Bộ Công Thương, vẫn có một lượng thép cuộn được các DN nhập khẩu vào Việt Nam. Các DN cho biết, khi áp thuế tự vệ họ đã nhập khẩu sản phẩm thép mã HS 7213.91.90 thay vì mã HS 7213.91.90 như trước đây để hưởng thuế ở mức 3%. Tôi đánh giá đây là việc lẩn tránh thuế. Để bảo vệ sản xuất trong nước, phát huy hiệu quả của áp thuế tự vệ thì Hiệp hội Thép và các nhà sản xuất thép trong nước thấy rằng cần phải ngăn chặn việc nhập khẩu số lượng lớn thép cuộn vào Việt Nam.

Vừa rồi, Văn phòng Chính phủ đã tổ chức cuộc họp giữa các bên có liên quan để xử lý kiến nghị của Hiệp hội. Chủ trì cuộc họp này, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng kết luận là cần xem xét nhằm có biện pháp thích hợp để bảo vệ sản xuất thép trong nước. Tuy nhiên, hiện Bộ Công Thương đang nêu ra một số vấn đề khó khăn trong việc xử lý kiến nghị của Hiệp hội như còn thiếu quy định xử lý đối với việc lẩn tránh thuế. 

Phòng vệ thương mại như con dao hai lưỡi, yếu tố quyền lợi người tiêu dùng được đặt ra như thế nào?

Mục tiêu của phòng vệ thương mại là bảo vệ sản xuất trong nước, trên cơ sở đó ngành sản xuất trong nước được bảo vệ, được phát triển, về lâu dài người tiêu dùng trong nước được hưởng lợi là mua được hàng hóa với chất lượng tốt và giá cả hợp lý. Khi áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại nói chung đều có ảnh hưởng, nhưng tôi khẳng định đó chỉ là trước mắt. 

Giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của DN thép Việt là gì, thưa ông?

Có rất nhiều giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh cho DN thép Việt Nam đã được đưa ra. Tuy nhiên phải nhìn nhận một thực tế, hầu như các DN ngành thép Việt Nam là các DN nhỏ và vừa, năng lực còn hạn chế. Muốn cạnh tranh được với DN trên thế giới, chúng ta cần khuyến khích xây dựng một số DN thép có quy mô tương đối lớn, năng lực tốt về tài chính, nhân sự… khi đó mới có thể tồn tại và hội nhập mạnh mẽ. 

Ông có dự báo gì về giá thép xây dựng trong năm 2017?

Giá cả thị trường thép Việt Nam phụ thuộc diễn biến giá cả của thị trường thép thế giới, bởi chúng ta thường xuyên phải nhập khẩu một lượng lớn nguyên liệu và bán thành phẩm để phục vụ sản xuất trong nước. Trong năm 2014 và năm 2015 thị trường thép thế giới chứng kiến việc giá thép giảm rất lớn và sâu, nhưng đầu năm 2016 các giá nguyên liệu, bán thành phẩm và thành phẩm thép tăng liên tục. 3 tháng đầu năm 2017 xu hướng giá thép tăng là vẫn có. Tuy nhiên, theo đánh giá của Hiệp hội thì việc tăng giá thép xây dựng năm nay sẽ không có đột biến và có thể sẽ giảm vào những tháng cuối năm.


Bình luận & chia sẻ
Đang tải bình luận,....
Đọc thêm

Trong gần bốn tháng qua, giá mặt hàng thép 14 lần liên tục “lao dốc” với tổng mức giảm từ 4 triệu đồng đến 5,5 triệu đồng/tấn tùy từng thương hiệu, chủng loại. Ðiều này khiến thị trường xây dựng giảm bớt áp lực, song lại khiến nhiều doanh nghiệp ngành thép có nguy cơ rơi vào thua lỗ trong sản xuất, kinh doanh.

Các doanh nghiệp thép đều đang đặt kỳ vọng cuối năm 2022 giá thép sẽ phục hồi khi các dự án xây dựng tăng tốc. Song với lượng hàng tồn kho còn khá lớn, nhất là những tháng cuối năm có thể chịu tác động xấu do nhu cầu sụt giảm, bảo hộ thương mại gia tăng, cùng với thời tiết vào mùa mưa,… là những yếu tố bất lợi, cản đà phục hồi của ngành thép.

Giá thép giảm 14 lần liên tiếp

Ðến giữa tháng 8 vừa qua, đã có nhiều doanh nghiệp sản xuất thép trong nước thông báo giảm giá lần thứ 14 liên tiếp trong gần bốn tháng. Theo đó, tại khu vực miền bắc, giá thép cuộn CB240 và thép thanh vằn D10 CB300 thương hiệu Hòa Phát giảm khoảng 300 nghìn đồng/tấn, với giá lần lượt còn 14,8 triệu đồng/tấn và 15,7 triệu đồng/tấn. Còn với thương hiệu Việt Nhật, mức giảm từ 200 nghìn đồng đến 310 nghìn đồng/ tấn, sau điều chỉnh giá hai loại thép này lần lượt còn 14,7 triệu đồng/tấn và 15,3 triệu đồng/tấn.

Riêng tại khu vực miền trung, thép Pomina có mức giảm mạnh nhất với giá thép cuộn CB240 giảm tới 1,31 triệu đồng/tấn, xuống còn 14,98 triệu đồng/tấn, thép thanh vằn D10 CB300 giảm 310 nghìn đồng/tấn, xuống còn 16,39 triệu đồng/tấn.

Sau bốn tháng đầu năm tăng nóng, bảy lần điều chỉnh tăng giá bán, đã có lúc giá thép chạm ngưỡng 21 triệu đồng/tấn, nay giá thép trong nước lại đảo ngược bất ngờ, về mức thấp hơn thời điểm đầu năm. Theo chia sẻ của Giám đốc Công ty Xây dựng Thành Thắng, Lê Ðình Thắng, sau thời gian dài tăng nhanh, việc giá thép giảm mạnh giúp cho các dự án thi công nhận thầu từ đầu năm đến nay có phần dễ thở đối với công trình có trị giá lớn do không còn phải bù lỗ với các hợp đồng đơn giá cố định.

Suốt thời gian dài vừa qua, biên lợi nhuận của doanh nghiệp luôn phải chịu nhiều áp lực do chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng cao kèm theo thị trường bất động sản trầm lắng, đầu tư công chưa đạt kỳ vọng. Khi giá thép “hạ nhiệt” sẽ làm giảm bớt gánh nặng cho nhiều doanh nghiệp xây dựng bởi thép thường chiếm khoảng 20%-30% chi phí mỗi công trình.

Tuy nhiên, việc giá thép liên tục “dò” đáy có thể khiến cho kế hoạch sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp ngành thép trong năm 2022 sẽ không đạt như kỳ vọng. Ðơn cử như Tập đoàn Hòa Phát, nửa đầu năm 2022 ghi nhận doanh thu 82.118 tỷ đồng và 12.229 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế, tương ứng giảm 27% so với cùng kỳ năm 2021, hoàn thành 46% kế hoạch năm.

Trên cơ sở đó, Hòa Phát dự kiến lợi nhuận cả năm 2022 chỉ đạt mức 25 nghìn tỷ đến 30 nghìn tỷ đồng, thấp hơn mức lợi nhuận 34.521 tỷ đồng của năm 2021. Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên (TISCO) cũng vừa thông báo, lãi quý II/2022 giảm 90% so cùng kỳ năm 2021, xuống còn gần sáu tỷ đồng. Tương tự, Công ty cổ phần Thép Thủ Ðức, báo cáo doanh thu quý II/2022 với lợi nhuận sau thuế âm gần hai tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm 2021 lãi 34 tỷ đồng.

Kỳ vọng những tháng cuối năm

Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), nửa đầu năm 2022, phần lớn các nhà máy đều trong tình trạng khó khăn do lượng hàng tồn kho cao với mức 1,42 triệu tấn, tăng 9,2% so với cùng kỳ năm 2021. Mức độ cạnh tranh giữa các nhà máy ngày càng khốc liệt về giá bán và xâm lấn thị phần của nhau.

Ðể tháo gỡ khó khăn, nhiều nhà máy thép đã buộc phải cắt giảm sản xuất từ 3 ca/ngày xuống còn 2 ca/ngày, thậm chí có những giai đoạn phải dừng sản xuất. Chủ tịch VSA Nghiêm Xuân Ða dự báo, thép xây dựng từ tháng 7 đến tháng 9 sẽ kém sôi động do thời tiết bước vào mùa mưa, đây cũng là một trong những yếu tố tạo nên tính chu kỳ cho ngành thép khiến nhiều công trình xây dựng ảnh hưởng tiến độ. Giá thép xây dựng trong nước sẽ tiếp tục giảm, trong khi lợi nhuận mảng xuất khẩu mặt hàng này không còn tốt như trước. Gần đây, EU đang ngày càng siết chặt các chính sách bảo hộ thương mại đối với sản phẩm thép của Việt Nam, giảm hạn ngạch nhập khẩu.

Với điều chỉnh này, xuất khẩu sắt thép của Việt Nam sang thị trường EU có thể sẽ giảm trong thời gian tới. Trong khi đó, những yếu tố khiến triển vọng thị trường thép nửa cuối năm chưa khả quan khi tốc độ giải ngân đầu tư công chậm, ngân hàng siết tín dụng bất động sản, mùa cao điểm xây dựng đã qua,… khiến các doanh nghiệp thép “bí” đầu ra.

Ngành thép Việt Nam đang phải đối mặt với sức ép cả về phía cung và cầu khi giá nguyên vật liệu tăng, trong khi nhu cầu bị thu hẹp. Dự báo trong năm 2022, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu để sản xuất thép như quặng sắt cho các lò cao khoảng hơn 18 triệu tấn, thép phế khoảng 6 triệu-6,5 triệu tấn cho các lò điện, than mỡ luyện cốc khoảng 6,5 triệu tấn và điện cực graphite 10 nghìn tấn. Nhưng khả năng giá quặng sắt, thép phế, quặng nguyên liệu thô và than mỡ luyện cốc,… vẫn duy trì ở mức cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp sản xuất thép và thị trường thép trong nước.

Bộ Công thương đã có những biện pháp bảo đảm cung cầu và bình ổn giá, theo dõi và xử lý kịp thời việc chống bán phá giá một số sản phẩm thép nhập khẩu vào thị trường Việt Nam cũng như đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá của các nước với mặt hàng thép xuất khẩu của Việt Nam nhằm giảm đến mức thấp nhất thiệt hại cho các doanh nghiệp sản xuất thép. Ngành Công thương đã tăng cường công tác quản lý thị trường để ngăn chặn, xử lý kịp thời hiện tượng đầu cơ tăng giá, thao túng giá thép trên thị trường, gian lận thương mại làm thất thu ngân sách nhà nước và ảnh hưởng đến người tiêu dùng,…

Thời gian qua, các dự án đầu tư triển khai có phần chậm, kéo theo lượng thép tiêu thụ giảm khiến các doanh nghiệp thép buộc phải giảm công suất sản xuất, trong khi thép tồn kho từ trước còn khá lớn, cho nên khi giá giảm mạnh như hiện nay sẽ ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh doanh. Doanh nghiệp nào tồn kho nhiều sẽ phải chịu cảnh “đầu vào cao, đầu ra thấp”, khiến doanh thu sụt giảm nghiêm trọng.

Các chuyên gia dự báo từ nay đến cuối năm sẽ còn nhiều khó khăn đối với ngành thép, song với những kinh nghiệm tích lũy được trong việc ứng phó trên thị trường nhiều năm qua, vẫn có nhiều tín hiệu cho thấy các doanh nghiệp ngành thép Việt Nam có các giải pháp sáng tạo vượt qua khó khăn, ổn định sản xuất, kinh doanh. Dịp cuối năm, nhất là trong quý IV, việc xây dựng công trình nhà ở, bất động sản tăng trưởng trở lại sẽ khiến lượng tiêu thụ các sản phẩm thép trong năm 2022 có thể tăng trưởng quanh mức 7%-10%.