Việt Nam không nên làm thép! 05.10.2016

Dù bị áp thuế tự vệ, giá thép nhập khẩu từ Trung Quốc vẫn thấp hơn thép Việt Nam khoảng 10%.

Kể từ sau khi tin tức về dự án thép Cà Ná có quy mô 10,6 tỉ USD được truyền đi, những tranh cãi về chuyện Việt Nam nên hay không nên làm thép đã nổ ra. Phía ủng hộ có lý do để bỏ phiếu thuận. Đại diện Bộ Công Thương nhận định, Việt Nam sẽ thiếu hụt khoảng 17 triệu tấn thép vào năm 2020 và đến năm 2025, con số này có thể lên tới 22-25 triệu tấn. Đây là lý do để Bộ Công Thương bỏ phiếu cho dự án thép Cà Ná.

Một số chuyên gia tán thành sự ra đời của những dự án thép “khủng” còn vì ngành thép cần được cơ cấu lại. Trong bài viết của mình, chuyên gia kinh tế Phan Minh Ngọc cho rằng, phần lớn nhà máy ở Việt Nam có quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ (công suất dưới 500.000 tấn). Sự ra đời của những dự án thép quy mô lớn hứa hẹn làm gia tăng vị thế của ngành, tăng áp lực cạnh tranh, buộc các nhà máy và dự án thép kém hiệu quả phải rút lui.

Liệu những lý do này đủ để thuyết phục các dự án thép “khủng” là cần thiết cho Việt Nam?

 

Nỗi ám ảnh từ thép Trung Quốc

Phải thừa nhận một nghịch lý rằng Việt Nam thiếu nhưng lại thừa thép. Trong những phân khúc Việt Nam đang sản xuất như thép xây dựng, thép ống, thép cuộn cán nguội và tôn mạ, hầu hết đều có công suất gấp đôi mức tiêu thụ. Sắp tới, khi nhiều dự án mới như Khu Liên hợp Gang Thép Formosa Hà Tĩnh (Đài Loan), Thép Nghi Sơn cùng đi vào hoạt động, sản lượng thép đến năm 2030 có thể đạt tới 50 triệu tấn mỗi năm, gấp 3-4 lần hiện tại. Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ dự đoán chưa tới 40 triệu tấn/năm.

Thừa thép nhưng Việt Nam vẫn đang bỏ ra hàng tỉ USD mỗi năm để nhập khẩu thép. Đó là vì nhiều loại thép như thép hợp kim, thép cuộn cán nóng, thép tấm lá, thép không gỉ, thép chế tạo... Việt Nam chưa đủ khả năng sản xuất hoặc chưa đủ năng lực đáp ứng. Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), năm 2015, Việt Nam đã nhập gần 1,8 triệu tấn phôi thép, nhập hơn 1,6 triệu tấn thép cuộn, dây thép và 1,43 triệu tấn tôn mạ. Tất cả đều tăng mạnh so với cùng kỳ.

Đây là sự bất hợp lý trong cơ cấu sản phẩm, đồng thời cũng phản ánh năng lực cạnh tranh yếu kém của ngành thép Việt Nam. Thực tế, dù bị áp thuế tự vệ, giá thép nhập khẩu từ Trung Quốc hiện vẫn thấp hơn thép Việt Nam khoảng 10%. Vì thế, các công ty thương mại tích cực nhập khẩu thép Trung Quốc về bán. Trong 8 tháng đầu năm nay, lượng thép Trung Quốc nhập vào Việt Nam đã gần bằng 80% lượng thép tiêu thụ trên thị trường và chiếm xấp xỉ 60% về sản lượng lẫn giá trị thép nhập khẩu của Việt Nam.

Thép Trung Quốc sẽ còn tiếp tục gây khó khăn cho thép Việt Nam do quốc gia này đang thừa cung và có thể sẽ thực hiện chiến dịch phá giá, đẩy mạnh bán thép ra nước ngoài. Trung bình mỗi năm Trung Quốc xuất ra thị trường thế giới 15% tổng sản lượng sắt thép. Nếu tình hình tiêu thụ ở Trung Quốc không cải thiện, nước này có thể dư thừa tới 300 triệu tấn thép mỗi năm, theo dự báo của Hiệp hội Sắt Thép Trung Quốc.

Cả thế giới đều lo sợ và tìm cách ngăn chặn thép Trung Quốc. Mỹ đã áp dụng mức thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp lên tới 266% đối với một số sản phẩm thép Trung Quốc nhập khẩu. Úc cũng quyết định áp thuế chống bán phá giá 53% lên thép Trung Quốc từ tháng 4 năm nay bất chấp Trung Quốc đe dọa cắt giảm nhập khẩu quặng sắt từ Úc. Riêng châu Âu, một mặt vận động các tập đoàn thép lớn sáp nhập với nhau và đổi mới công nghệ để làm ra những loại thép cao cấp mà Trung Quốc không sản xuất được, mặt khác đàm phán với Trung Quốc lập ra một cơ quan hỗn hợp để theo dõi số liệu thương mại song phương về thép và giám sát việc Trung Quốc thực hiện các biện pháp cắt giảm sản lượng thép.

Việt Nam cũng đã thiết lập hàng rào thuế quan tự vệ đối với thép nhập khẩu và chính thức áp dụng biện pháp này từ tháng 8.2016. Tuy nhiên, mức thuế 23,3% mà Việt Nam áp cho phôi thép và 15,4% dành cho thép dài sẽ chỉ kéo đến tháng 3.2020, với thuế suất giảm dần qua các năm. Nhiều khả năng các biện pháp tự vệ từ Việt Nam sẽ không làm chậm lại bước tiến của thép Trung Quốc.

Trung Quốc có sức mạnh của một cường quốc về sản xuất thép. Theo Hiệp hội Thép Thế giới, hằng năm, Trung Quốc sản xuất hơn 800 triệu tấn thép. Tuy năm 2015, nước này đã giảm đôi chút về sản lượng nhưng vẫn gấp 5 lần sản lượng của châu Âu, hơn 7 lần Nhật và chiếm hơn một nửa tổng sản lượng thép toàn thế giới. Với quy mô này, cộng thêm những ưu đãi mà Trung Quốc dành cho ngành thép, như ưu đãi về giá điện, nước, nới lỏng các quy định về môi trường và các doanh nghiệp thép Trung Quốc cũng đã triển khai những ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất thép nên thép Trung Quốc không chỉ vượt trội về nguồn cung hàng hóa mà còn hấp dẫn về giá cả. Với những lợi thế này, gần như không quốc gia nào thắng nổi Trung Quốc trong cuộc cạnh tranh về giá thép.

Bất lợi đủ đường

Ngành thép Việt Nam còn phải cạnh tranh với các đối thủ đến từ nhóm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Một khi nhà máy thép của Formosa đi vào vận hành, với công suất 7,5 triệu tấn/năm giai đoạn 1 và tăng lên khoảng 22,5 triệu tấn/năm khi nhà máy hoàn thiện, Formosa có khả năng sẽ thao túng cả thị trường. Bởi ngay doanh nghiệp thép lớn nhất hiện nay của Việt Nam là Hòa Phát cũng chỉ mới đạt công suất 2 triệu tấn/năm.

Ngành thép cũng chịu ảnh hưởng bởi cung cầu thị trường, giá cả... trên thế giới, vốn thường xuyên biến động. Chính vì thế, ngành thép chỉ mới sáng sủa trở lại trong năm nay, sau khi giá thép thế giới hồi phục, nhu cầu thép trong nước tăng theo, thị trường bất động sản ấm lại và Việt Nam đã tiến hành các biện pháp thuế quan tự vệ. Còn trước đó, ngành thép Việt Nam hứng chịu nhiều lao đao. Trong 5 năm (2011-2015), nhiều doanh nghiệp trong ngành này như Thép Việt Ý, Hữu Liên Á Châu, Thép Tiến Lên, Pomina, Thép Nam Kim, Đại Thiên Lộc, Thép Thái Nguyên (TISCO)... đều từng nếm trải mùi thua lỗ.

Nhìn sâu thêm vào ngành thép mới thấy Việt Nam khó mong đạt tới một nền công nghiệp thép có khả năng trụ vững trước sức tấn công của thép Trung Quốc. Theo báo cáo của nhóm chuyên gia thuộc Fulbright, sau hơn 2 thập niên tìm cách đổi mới ngành thép, dồn lực đầu tư cho nhóm doanh nghiệp nhà nước mà cụ thể là Tổng Công ty Thép Việt Nam (VNSteel), VNSteel vẫn không tỏa sáng. Trong khi đó, các doanh nghiệp tư nhân - nhóm không được ưu tiên - lại cho thấy sức bật. Hiện tại, Pomina là doanh nghiệp đầu tư bài bản nhất, còn Hòa Phát có lẽ là doanh nghiệp đạt lợi thế cạnh tranh lớn nhất.

Nhưng sự vươn lên của một số doanh nghiệp thép không xóa đi được thực trạng ngành thép Việt Nam. Số liệu từ VSA cho thấy, hơn 2/3 nhà máy sản xuất thép trong nước hiện sử dụng các thiết bị sản xuất có trình độ công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều năng lượng và gây ô nhiễm môi trường. Trong luyện phôi, doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu dùng công nghệ lò điện, vốn là công nghệ lạc hậu so với lò cao. Trong sản xuất thép, nhiều công ty sử dụng lò dung tích nhỏ (chưa tới 100 m3), thấp hơn nhiều so với dung tích bình quân hàng ngàn mét khối của Nhật, Trung Quốc. Bởi thế, các doanh nghiệp thép của Việt Nam thường mất thời gian gấp đôi và tiêu hao điện cao hơn 60-70% so với thế giới để sản xuất 1 mẻ thép, theo báo cáo từ VNSteel. Và giá thành làm thép của Việt Nam cũng cao hơn 10-15% thế giới.

Tương lai ngành thép Việt Nam đang trông nhờ vào các doanh nghiệp tư nhân như Hòa Phát, Hoa Sen, Pomina. Đây là các doanh nghiệp đã lớn mạnh về quy mô, đầu tư nghiêm túc nên được kỳ vọng sẽ tạo được sức cạnh tranh. Nhưng đây cũng là nhóm cần sự hỗ trợ từ chính sách. Chẳng hạn, chính sách cấm xuất khẩu quặng sắt có lợi cho Hòa Phát và TISCO. Hòa Phát, chẳng hạn, đã nắm quyền quyết định trong đàm phán mua quặng sắt khi các cửa ra cho quặng sắt bị đóng lại.

Ngay việc áp thuế tự vệ cũng chỉ có lợi cho một số doanh nghiệp vừa luyện phôi vừa sản xuất thép như Hòa Phát, Việt Ý, Pomina, nhóm doanh nghiệp VNSteel, theo đánh giá của Công ty Chứng khoán Bảo Việt. Còn phần đông những doanh nghiệp chỉ sản xuất hoặc làm thương mại thép lại không hưởng lợi hoặc hưởng lợi rất ít. Rõ ràng, các chính sách về thép chỉ hỗ trợ một nhóm doanh nghiệp và đã gây ra những tranh cãi nhất định.

Đáng nói là dù được tạo điều kiện, sản phẩm thép Việt Nam vẫn khó lật ngược thế cờ trước thép ngoại. Lượng thép nhập khẩu vào Việt Nam vẫn trên đà tăng và tăng cao hơn sản lượng thép sản xuất trong nước. Trong khi đó, sản xuất thép đưa đất nước đối mặt với rủi ro môi trường. Theo Hội Khoa học Kỹ thuật Đúc - Luyện kim Việt Nam (VFMSTA), để sản xuất được một tấn thép thô bằng công nghệ lò cao, các doanh nghiệp sẽ thải ra hơn 585 kg chất thải rắn, 3 m3 nước thải độc hại, 2,3 tấn khí CO2, cùng các loại khí CO, SO2, bụi và bụi kim loại... Vì vậy, trong các vùng luyện kim, thường 60% khí quyển bị nhiễm bẩn. Nếu các loại khí thải này không được xử lý tốt, các hóa chất sẽ gây ra những hiện tượng như mưa a-xít, cùng với bụi kim loại, làm nguy hại cho sức khỏe con người, cây trồng vật nuôi trong khu vực.

Trả lời báo chí, ông Phạm Chí Cường, Chủ tịch VFMSTA, cho biết: “Sản xuất thép là ngành không thân thiện với môi trường. Không có nhà máy thép nào là sạch. Nơi nào có nhà máy thép nơi đó có ô nhiễm”. Để làm sạch môi trường, năm 2014, các doanh nghiệp Mỹ đã chi 17 USD cho mỗi tấn thép, theo Cục Điều tra Thống kê Mỹ. Nếu Formosa cũng làm theo cách của doanh nghiệp Mỹ, ước tính chi phí khử ô nhiễm khi sản xuất 7,5 triệu tấn thép sẽ là 127 triệu USD.

Việt Nam đi sau, lại không có lợi thế về quy mô, công nghệ, vốn… để đưa ngành thép đạt tới tầm vóc đủ sức cạnh tranh về giá và chất lượng với các nước. Trong khi đó, thép Trung Quốc, thép Hàn, Nhật... dư thừa nguồn cung, không ngừng đe dọa thép Việt Nam. Và cùng với hiểm họa môi trường, một số ý kiến cho rằng, Việt Nam nên đi con đường nhập thép sẽ lợi ích hơn là đẩy mạnh sản xuất thép.

Bình luận & chia sẻ
Đang tải bình luận,....
Đọc thêm
Thép dẹt
_   Giá thép cuộn cán nóng tiếp tục tăng lên mức giá chưa từng thấy trước đây tại thị trường Châu Âu, với các nhà máy trên khắp Châu lục không thể cung cấp đủ nguyên liệu cho các trung tâm dịch vụ và nhà phân phối, những người đang gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu của- người dùng, các nguồn cho biết.
Khi tình hình xấu đi, có nhiều nguồn tin đang tích cực hỏi về nhập khẩu, với mức giá từ 1,000-1,080 Euro/tấn FCA Antwerp đối với thép cuộn cán nguội và 840-870 Euro/tấn FCA Antwerp đối với HRC.
Một trung tâm dịch vụ của Đức cho biết giá HRC ở 850 Euro/tấn Ruhr sẽ là “cao cấp nhất” trong phạm vi giá và nói rằng AM đã có mặt trên thị trường. Không ai có thể đánh giá đúng tình hình lúc này. Khách hàng đang chấp nhận mức tăng 70 Euro/tấn qua một đêm.
Tại thị trường Ý, một nguồn tin của trung tâm dịch vụ đã phân vân về sự khác biệt giữa thị trường hiệu suất cao Mỹ và Châu Âu.
Tôi không hiểu tại sao giá ở Mỹ cao hơn 200 Euro/tấn mà vẫn duy trì, trong khi ở Châu Âu thì không thể,” nguồn tin cho biết. "Nhu cầu cuối cùng mạnh mẽ, vấn đề là không ai có sẵn một kg hàng trong kho." Nguồn tin tương tự cũng lưu ý rằng tồn kho của trung tâm dịch vụ hiện chỉ còn giá trị trong hai tháng, so với bốn tháng gần một năm trước và nói thêm rằng có rất ít khả năng đàm phán giá với các nhà máy.
Về phía người mua, nguồn tin cho biết những người mua tuyệt vọng hiện đang cố gắng chuyển sang các sản phẩm khác ít nhu cầu hơn để đáp ứng các đơn đặt hàng của khách hàng.
Giá HRC Châu Âu hiện đã vượt mức kỷ lục năm 2008, chủ yếu xoay quanh vấn đề thiếu cung và khả năng còn thiếu hụt nữa trước các bất ổn dịch covid 19 khiến nhiều khu vực áp đặt lệnh giới nghiêm như Ý, Đức. Điều này sẽ còn giữ giá ở mức cao, tầm  gần 900 Euro/tấn Ruhr tới gần cuối Q2, song có thể điều chỉnh giảm lại xuống dưới 800 Euro/tấn qua tháng 7 khi vấn đề thắt chặt nguồn cung giảm bớt, hàng nhập khẩu tăng cường.
_   Giá thép cuộn cán nóng của Mỹ vẫn tăng và người mua tiếp tục báo cáo các lựa chọn nguồn cung hạn chế. Chỉ số HRC hàng ngày không đổi ở mức 1,342.50 USD/tấn.
Người mua trong nước không thành công trong việc nhận được bất kỳ sản phẩm sẵn có nào từ các nhà cung cấp và một nhà sản xuất thép dự kiến ​​sẽ mở đơn hàng tháng 5 vào tuần bắt đầu từ ngày 5/4 nhưng nhà máy đã thông báo về việc không có HRC trong tháng. Với việc thiếu các lựa chọn từ các nhà cung cấp trong nước, người mua điều hướng các lựa chọn của mình trên thị trường nhập khẩu và trích dẫn một chào bán ở mức 1,1170 USD/tấn DDP Houston từ Thổ Nhĩ Kỳ với thời gian đến vào cuối tháng 6.
Các chào bán ở mức 1,360 USD/tấn từ hai nhà máy riêng biệt của Canada với thời gian sản xuất vào tháng 8.
Giá sẽ tiếp tục tăng mạnh vào mùa hè vì không có biện pháp khắc phục tình trạng chặt chẽ trong ngắn hạn. Bão mùa đông và covid sẽ còn gây khó khăn hơn cho sản xuất, đẩy giá tăng thêm 50 USD/tấn lên mức đỉnh 1,400 USD/tấn có thể duy trì tới gần hè. Sau tháng 7, nguồn cung phục hồi nhẹ cộng với phế giảm giá sẽ kéo giá về xuống gần 1,000 USD/tấn.
_ Các nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ đã tăng giá chào bán thép cuộn cán nóng của họ thêm vào ngày 26/3 và bắt đầu cung cấp HRC cho thị trường nội địa ở mức 900-930 USD/tấn xuất xưởng cho sản lượng tháng 7 và 890-910 USD/tấn FOB cho xuất khẩu, tùy thuộc vào nhà sản xuất và trọng tải. Việc tăng giá liên tục trong khu vực EU đã hỗ trợ báo giá của các nhà máy.
Chào giá nhập khẩu cũng tăng, với giá chào từ Nga ở mức cao 870-880 USD/tấn CFR.
Dự kiến giá HRC sẽ tăng hơn nữa trên toàn cầu trong những tuần tới, với sự hỗ trợ của việc loại bỏ hoàn thuế xuất khẩu ở Trung Quốc.
Một nhà sản xuất thép mạ khác cũng nói ngày 26/3 rằng giá chào bán của họ vẫn ổn định trong bối cảnh chi phí HRC liên tục tăng. Ông nói: “Nhu cầu trong nước chậm lại, nhưng nhu cầu xuất khẩu vẫn ổn,” ông nói và lưu ý rằng họ đã bán một số lượng tốt cho các thị trường xuất khẩu trong những tuần gần đây.
Nhấn mạnh rằng đồng lira giảm giá mạnh đã ảnh hưởng đến thị trường trong nước, một giám đốc trung tâm dịch vụ nói ngày 26/ 3 rằng thị trường nội địa hầu như đứng yên trong suốt tuần.
Ông lưu ý: “Với việc các nhà máy liên tục tăng giá khiến chi phí dự trữ của chúng tôi đang tăng mạnh, trong khi chúng tôi đang đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng trong việc phản ánh những mức tăng này cho khách hàng của mình.”
Việc ngừng bảo trì theo kế hoạch vào tháng 5 của một số nhà sản xuất Thổ Nhĩ Kỳ cũng có thể tiếp tục hỗ trợ việc định giá HRC. Giá đang tăng trưởng theo xu hướng tăng giá của Trung Quốc và Châu Âu và sẽ giữ ở mức cao gần 900 USD/tấn FOB trước khi điều chỉnh lại vào hè xuống 710-720 USD/tấn FOB khi phế giảm, lễ Ramadan làm chậm nhu cầu.
Thép dài
_Giá thép cây của Mỹ đi ngang vào ngày 26/3 trong bối cảnh thị trường có tâm lý trái chiều trước đợt mua phế liệu tháng 4.
 “Ở một số khu vực, nhu cầu vẫn lớn hơn cung,” một nhà phân phối ở Midwest cho biết. Ông đã thấy giá trị có thể giao dịch ở mức 800-820 USD/tấn đối với thị trường Mỹ. Tuy nhiên, các nguồn thị trường khác bày tỏ nghi ngờ về việc tiếp tục định giá ổn định, lưu ý rằng lượng hàng tồn đọng thấp hơn và một số nhà máy đã giảm giá ở một số khu vực nhất định.
Giá phế tháng 4 dự kiến suy yếu nhẹ song điều này sẽ không ảnh hưởng tới đà tăng giá thép cây Mỹ vì chi phí vận chuyển tăng và nguồn cung hạn chế. Các nhà máy có thể sẽ thông báo tăng thêm 20-30 USD/tấn trong tháng 4 lên 850-870 USD/tấn trước khi hàng nhâp khẩu cập cảng tháng 5 gây áp lực kéo giá giảm lại dưới 800 USD/tấn.
_    Giá thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ không đổi do một số nhà máy giữ nguyên mức khả thi, trong khi các nhà máy khác tăng giá chào bán sau đợt bán khối lượng lớn gần đây sang Châu Á,.
Nguồn tin từ nhà máy trích dẫn giá trị có thể giao dịch chỉ định cho 10,000 tấn vào ngày 30/3 là 615-620 USD/tấn FOB, trong khi một đại lý Thổ Nhĩ Kỳ cũng cho biết 615-620 USD/tấn FOB là khả thi đối với 10,000 tấn, nói thêm rằng giá chào ở mức 630 USD/tấn FOB và cao hơn. Một nguồn tin EU trích dẫn giá trị có thể giao dịch chỉ định cho 10,000 tấn là 615 USD/tấn FOB, trong khi một thương nhân khác cho biết trên 620 USD/tấn FOB Thổ Nhĩ Kỳ là khả thi.
Sau một số đợt bán hàng với khối lượng lớn sang Châu Á, một số nhà máy của Marmara đã tăng giá chào hàng lên tới 640 USD/tấn FOB, nhưng các nhà máy khác, những người vẫn còn một số lô hàng trong tháng 5, được cho là có thể thực hiện được từ 615-620 USD/tấn FOB.
Một nhà máy Izmir cũng được cho là đang đàm phán về việc vận chuyển 50,000 tấn hàng hóa vào Hồng Kông và Singapore, với mức chào bán 675 USD/tấn trọng lượng lý thuyết CFR, bao gồm một phần đáng kể vật liệu 40 mm.
Việc tăng lãi suất hiện tại được cho là sẽ gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và sẽ không tốt cho lĩnh vực xây dựng. Giá cũng đang chịu áp lực từ giá phế giảm và tiêu thụ chậm, song được hỗ trợ từ doanh số bán vào Châu Á khi Trung Quốc ngưng bán vì thiếu rõ ràng từ chính sách hoàn thuế. Dự báo giá Trung Quốc tăng sẽ tiếp tục hỗ trợ các nhà máy bán vào Châu Á, song tiêu thụ chậm lại khi vào lễ Ramadan kéo giá xuống 560-580 USD/tấn vào tháng 5.
_ Sau khi giảm khoảng 21% trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến đầu tháng 3, giá thép cây trên thị trường nội địa Nga đã tăng do nhu cầu tăng theo mùa. Chào giá từ các nhà sản xuất trong nước đều trên 50,000 Rub/tấn (656 USD/tấn) CPT Moscow bao gồm 20% VAT. Một nhà sản xuất đã thông báo một đợt tăng giá khác, lên 54,000 Rub/tấn (708 USD/tấn) vào ngày 25/3.
Giá chào mới nhất vẫn cao hơn đáng kể so với đỉnh giá khoảng 62,000 Rub/tấn (818 USD/tấn) vào tháng 1. Sau đó, thị trường quay đầu giảm xuống mức đáy khoảng 49,000 Rub/tấn (657 USD/tấn) CPT Moscow vào cuối tháng 2.
Thị trường cải thiện theo mùa đối với các dự án xây dựng trong quý II. Một số nhà cung cấp thép cây ở thị trường Moscow sẽ ngừng sản xuất để bảo trì, điều này sẽ làm mất đi một số khối lượng thép trên thị trường. Những yếu tố này sẽ hỗ trợ giá phục hồi lên 700 USD/tấn vào 2 tháng tới.
Phế
Giá phế liệu nhập của Thổ Nhĩ Kỳ không đổi trong bối cảnh đồng lira của Thổ Nhĩ Kỳ biến động mạnh.
Tuy nhiên, giá thu gom của Benelux đối với vật liệu HMS đã được nghe thấy vào khoảng 315 Euro/tấn giao tới bến, với một số nhà xuất khẩu sẵn sàng trả tới 320 Euro/tấn.
Nguồn tin từ nhà máy Thổ Nhĩ Kỳ trích dẫn giá trị có thể giao dịch chỉ định cho HMS 1/2 (80:20) cao cấp ở mức 420-425 USD/tấn CFR. Nguồn tin từ nhà máy cũng trích dẫn kỳ vọng giá tái chế đối với HMS 1/2 (80:20) cao cấp trong thời gian tới ở mức tối đa 440 USD/tấn CFR.
Các chào giá chỉ định cho HMS 1/2 (80:20) xuất xứ Baltic và EU ở mức 430-435 USD/tấn CFR.
Chênh lệch hàng ngày giữa thép cây xuất khẩu của Thổ Nhĩ Kỳ và phế liệu nhập khẩu được đánh giá ở mức 196 USD/tấn vào ngày 30/3, không thay đổi so với ngày trước. Hiện người bán đang chờ đợi xem diễn biến giá thép tháng 4 để có quyết định chào bán. Giá đang áp lực do sự suy yếu của thép cây và nhu cầu chậm. Giá tháng 4-tháng 5 dự báo giảm về 400-405 USD/tấn CFR khi vào mùa lễ Ramadan.